Luật sư Nguyễn Hữu Thọ

tịch đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Ông sinh tại Chợ Lớn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Năm 1930, ông học luật tại Pháp. Năm 1948, ông tham gia Mặt trận Liên Việt và năm sau được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông hoạt động trong phong trào trí thức và bị Pháp bắt tháng 6 năm 1950, bị giam ở Lai Châu rồi Sơn Tây cho đến tháng 11 năm 1952. Sau đó ông lại tham gia phong trào đấu tranh hợp pháp, đòi hòa bình ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1954, ông bị chính quyền Ngô Đình Diêm bắt và bị giam tại Phú Yên.

Khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1960 nhưng chưa có lãnh tụ, phía cộng sản tập trung giải thoát cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ, đang bị quản thúc tại Phú Yên. Việc giải thoát thành công và cuối tháng 11 năm 1961, luật sư Nguyễn Hữu Thọ về đến bắc Tây Ninh. Tháng 2 năm 1962 Đại hội lần thứ I Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được tổ chức và luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch.

Khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được thành lập vào tháng 6 năm 1969, ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng cố vấn.

Năm 1976, ông được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam thống nhất.

Tháng 4 năm 1980, sau khi Chủ tịch nước Việt Nam Tôn Đức Thắng qua đời, ông làm Quyền Chủ tịch nước cho đến tháng 7 năm 1981.

Năm 1981, ông là Chủ tịch Quốc hội Việt Nam cho đến năm 1987, rồi là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tại đại hội năm 1988.

Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996.
============================

Hành trình Nguyễn Hữu Thọ: Mặt trận giữa lòng địch

TT - Bố trí luật sư Nguyễn Hữu Thọ hoạt động giữa Sài Gòn - Chợ Lớn là quyết định đúng đắn của lãnh đạo kháng chiến Nam bộ. Thành phố này không chỉ là “thủ đô” của “quốc gia VN”, mà còn là thủ phủ của cả liên bang Đông Dương thuộc Pháp.

Chính tại đây, tài năng và đức độ của nhà trí thức yêu nước được thể hiện một cách đầy đủ.

Người bảo vệ quyền lợi đồng bào

Ngày 1-7-1949, Pháp đưa Bảo Đại về nước làm “quốc trưởng” bù nhìn, thực hiện âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt” hòng biến chiến tranh xâm lược của Pháp thành “nội chiến” giữa người Việt lẫn nhau.

Ban trí vận Thành ủy một lần nữa vận động nhân sĩ, trí thức thành phố ký tên vào bản Tuyên ngôn phản đối những ý đồ đen tối nhằm kéo dài chiến tranh, đòi Pháp phải đàm phán với Chính phủ VN dân chủ cộng hòa để tìm ra một giải pháp hòa bình.

Học sinh bãi khóa lên án Bảo Đại làm tay sai cho xâm lược. Ngày 9-1-1950, HS biểu tình trước dinh thủ hiến Nam phần (nay là Bảo tàng TP.HCM). Pháp đàn áp một cách tàn bạo khiến nhiều HS chết và bị thương.

Bốn ngày sau, đám tang trò Trần Văn Ơn, HS ban tú tài Trường Petrus Ký, diễn ra trọng thể. Thay mặt ban tổ chức lễ tang, luật sư Nguyễn Hữu Thọ đọc điếu văn. Đập lại luận điệu tuyên truyền “Pháp đã trao độc lập và tự do cho Bảo Đại rồi”, ông nhắc lại chuyện cảnh sát và hiến binh Pháp đàn áp đẫm máu những HS trong tay không một tấc sắt, rồi đặt ra câu hỏi: “Như thế này thì nhân dân ta đã có độc lập và tự do hay không?”.

Cả một biển người đồng thanh đáp lại: “Không! Không! Không!”. Kết thúc bài điếu văn, ông nhắn nhủ mọi người: “Chúng ta hãy sống cho xứng đáng với gương người đã khuất”.

Sau đám tang trò Ơn, Thành ủy chủ trương thành lập phái đoàn đại biểu các giới Sài Gòn - Chợ Lớn (PĐĐBCG) để bảo vệ những quyền lợi về dân sinh dân chủ cho mọi tầng lớp đồng bào TP.

Có thể xem PĐĐBCG là hình ảnh thu nhỏ của một mặt trận, hay nói đúng hơn, đó là tổ chức công khai hợp pháp của Mặt trận Việt minh - Liên Việt trong lòng địch. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được mọi người nhất trí bầu làm trưởng phái đoàn và văn phòng số 152 đường De Gaulle của ông trở thành trụ sở của phái đoàn.

Việc làm đầu tiên của ông là cùng với những người cầm đầu phái đoàn vào dinh thủ hiến yêu cầu Trần Văn Hữu phải trả tự do cho những HS còn bị giam giữ, mở cửa trường để HS tiếp tục học tập, thu nhận lại những công nhân bị sa thải vì đã tham dự đám tang trò Ơn, thu hồi lệnh đóng cửa một số tờ báo tiến bộ... Trần Văn Hữu không thể không hứa giải quyết.

Anh em chạy xe tìm gặp ông, tố cáo cảnh sát ăn tiền của chủ hãng xe điện người Pháp, cấm họ đón khách dọc đường, tìm mọi cớ để phạt vạ khiến họ không có công ăn việc làm. Ngày 9-3, ông cùng phái đoàn gặp thủ hiến, đòi chấm dứt ngay cách đối xử bất công ấy, nếu không dân chúng Sài Gòn - Chợ Lớn sẽ tẩy chay xe điện. Một lần nữa, Trần Văn Hữu chấp nhận yêu cầu của phái đoàn.

Cũng trong buổi gặp này, ông đòi cải thiện chế độ giam giữ và ăn uống ở nhà lao Chí Hòa và trại giam Thủ Đức. Trần Văn Hữu hứa sẽ ra lệnh cho cấp dưới thực hiện các yêu sách của phái đoàn. Trước khi ra về, ông nói thẳng với viên thủ hiến: “Tuần tới, chúng tôi sẽ trở lại gặp ông để xem những gì ông hứa đã được thực hiện tới đâu”.

Đêm 4-3-1950, một vụ cháy nữa xảy ra ở vùng Bàu Sen - Tân Kiểng trong Chợ Lớn, thiêu rụi hơn 2.000 nóc nhà, đẩy gần 1 vạn đồng bào nghèo người Việt lẫn người Hoa vào cảnh màn trời chiếu đất. Lấy cớ qui hoạch lại khu vực bị cháy, nhà cầm quyền cấm bà con cất lại nhà trên nền cũ.

Lệnh cấm này khiến dư luận cho rằng nhà cầm quyền chủ mưu đốt xóm lao động này vì nghi vùng này là điểm tựa của cán bộ kháng chiến. PĐĐBCG mở ngay một cuộc lạc quyên, tiếp nhận không chỉ tiền bạc, thực phẩm, áo quần, dụng cụ gia đình mà cả vật liệu xây dựng nữa. Hằng ngày, PĐĐBCG tổ chức bữa cơm cứu tế, chữa bệnh và phát thuốc cho người ốm đau.

Chủ nhật 12-3-1950, 6.000 công nhân, HS, công tư chức tham gia “Ngày cất nhà” đợt I, đắp được 2.000 nền nhà, dựng được 366 căn nhà tạm để đồng bào che mưa che nắng.

“Tội danh” yêu nước

Pháp định đưa dược sĩ Phạm Hữu Hạnh, chủ tịch Hội Liên Việt Sài Gòn - Chợ Lớn, và 21 thành viên khác của hội - tất cả đều là nhân sĩ trí thức và công tư chức - ra tòa án quân sự thường trực vào ngày 15-3-1950 với tội danh “xâm phạm nền an ninh quốc gia”.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ nhận bảo vệ dược sĩ Hạnh trước tòa. Giới trí thức nói đùa với nhau: “Chủ tịch Hội Liên Việt công khai (chỉ PĐĐBCG) bào chữa cho chủ tịch Hội Liên Việt bí mật!”.

Ngày 9-3, ông vào dinh thủ hiến để trao bản thông cáo của PĐĐBCG phản đối việc đưa các trí thức Liên Việt ra tòa về “tội” yêu nước. Ngày 14-3, báo Thần Chung đăng trên trang nhất tuyên bố của ông về vụ án: “Góp sức để tranh thủ độc lập cho quê hương, tự do cho đồng bào không phải là một tội mà là một bổn phận, hơn nữa là một danh dự. Kẻ có tội chính là những người không làm gì để phụng sự dân tộc mình...

Người ta bảo rằng những nhà ái quốc VN “hành động có hại cho an ninh quốc gia”. Quốc gia nào? Quốc gia Pháp ư? Chúng ta đang sống trên lãnh thổ của chúng ta, chứ đâu phải trên lãnh thổ Pháp. Quốc gia VN ư? Giải phóng quốc gia đâu có nghĩa là xâm phạm an ninh quốc gia”.

Trước sự phản đối của dư luận, đặc biệt là của PĐĐBCG, thực dân và bù nhìn phải chùn tay, tuyên bố hoãn phiên tòa. Ngày 15-3, hàng nghìn đồng bào vẫn tụ tập trước tòa án. Nghe tòa thông báo vụ án đình lại, bà con không tin.

Tòa phải mời luật sư Nguyễn Hữu Thọ đến. Ông tuyên bố: “Cuộc tranh đấu vì chính nghĩa của đồng bào đã có kết quả thắng lợi, anh chị em hãy giải tán trong vòng trật tự để tiếp tục tranh đấu nữa”, lúc đó mọi người mới ra về.

Vào lúc đó, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào VN, viện trợ đôla và súng đạn để Pháp tiếp tục chiến tranh. Giữa tháng 3-1950, Mỹ cho hàng không mẫu hạm Boxer đậu ngoài khơi Vũng Tàu, có hai khu trục hạm Buck và Mason bảo vệ.

Dự kiến 71 máy bay phản lực sẽ cất cánh từ hàng không mẫu hạm và bay lượn thật thấp trên bầu trời Sài Gòn để phô trương sức mạnh quân sự của Mỹ, uy hiếp tinh thần nhân dân VN. Trong khi đó, hai khu trục hạm Stickwell và Anderson ngược sông Lòng Tàu cập bến Argonne (nay là Bạch Đằng). Mấy trăm lính thủy Mỹ lên bờ, đi lại nghênh ngang.

Đêm 18-3, ba khẩu súng cối 82 ly tự tạo của trung đoàn 300 bộ đội miền Đông nã 20 phát đạn vào hai khu trục hạm Mỹ. Sáng hôm sau, đồng bào tụ tập tại sân Trường Tôn Thọ Tường (nay là Ernst Thalmann) để nghe luật sư Nguyễn Hữu Thọ nói chuyện. Bài nói chuyện chưa hết, cảnh sát đã ập tới dùng bạo lực giải tán. Đồng bào rầm rập xuống đường, tiến xuống bến Argonne để đuổi hai tàu chiến Mỹ. Bị cảnh sát ngăn cản, đồng bào dùng gạch, đá, thanh củi chống lại.

Tối hôm ấy, hai tàu chiến Mỹ âm thầm rút chạy ra khơi. Cuộc thao diễn của máy bay Mỹ cũng bị hủy bỏ.

Đêm 19-3, Pháp bắt luật sư Nguyễn Hữu Thọ về bót Catinat (nay là trụ sở Sở Văn hóa - thông tin TP.HCM) để thẩm vấn, sau đó giam vào khám Lớn (nằm trên vị trí Thư viện Khoa học tổng hợp ngày nay). Chín ngày sau, chúng đưa ông ra tòa với tội danh “bạo động có mục đích xúi giục nổi loạn, trao khí giới đánh lẫn nhau, phá hoại, tàn sát, cướp bóc”.

Ông bác bỏ lời buộc tội ấy: “Những lần trước, sau khi nghe tôi nói chuyện, dân chúng ra về trong trật tự. Ngày 19-3 vừa rồi, tôi nói chưa xong thì cảnh sát dùng hơi cay để giải tán nên dân chúng phản ứng lại để tự vệ, chứ tôi không xúi giục gì cả”. Không đủ chứng cớ, tòa cho ông tại ngoại hậu tra sau khi đóng 5.000 đồng thế chân. Trên báo Tiếng Chuông ngày 30-3, ông tuyên bố: “Tôi được tự do tạm là dĩ nhiên vì tôi không có tội tình gì cả”.

Khi văn phòng số 152 đường De Gaulle mở cửa trở lại, đồng bào lại kéo đến nhờ ông can thiệp cho chồng, con, anh em họ còn bị bắt, bị đuổi học hay bị sa thải vì đã tham gia cuộc biểu tình ngày 19-3. Ông trở lại khu Bàu Sen - Tân Kiểng để thăm bà con và lên kế hoạch tổ chức “Ngày cất nhà” đợt II.

Chỉ trong ba tháng đầu năm 1950, ông đã tả xung hữu đột giữa lòng địch, đưa phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân TP lên tầm cao. Hai ngày 9-1 và 19-3 được lịch sử ghi nhận là “Ngày HSSV toàn quốc” và “Ngày toàn quốc chống Mỹ”.

PĐĐBCG trở thành cái gai trong mắt của thực dân và bù nhìn. Trên tờ L’Union Fran5caise, Henri De Lachevrotière mỉa mai: “Nên treo lá cờ Việt Minh trước trụ sở PĐĐBCG vì đây là cơ quan đại diện của Việt Minh”.

Nhưng, như luật sư Nguyễn Hữu Thọ tuyên bố trên báo Tiếng Chuông ngày 30-3, “công việc làm của chúng tôi là tranh đấu công khai để đòi thực hiện tự do dân chủ, bảo vệ quyền lợi của đồng bào ở thành (phố), công việc đó không phải của một hội kín mà là của một PĐĐBCG đã tiếp xúc nhiều lần với nhà cầm quyền”, nên địch không thể và không dám dẹp bỏ PĐĐBCG.

Sau ngày nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn xuống đường đuổi hai tàu chiến Mỹ ngày 19-3-1950, Pháp đóng cửa các tờ báo tiến bộ và ra lệnh cho những tờ báo khác không được đăng các thông cáo của PĐĐBCG.

Để tiếp tục hướng dẫn dư luận, phái đoàn phải tự in các thông cáo để phân phát tận tay đồng bào. Trưa 13-4-1950, Pháp bắt luật sư Nguyễn Hữu Thọ vì “tội” phát tán truyền đơn bất hợp pháp.

TS PHAN VĂN HOÀNG

====================================

Sự chọn lựa của người trí thức

TT - Ngày 20-12-1960, tại Rùm Đuôn, Trảng Chiên (Tây Ninh), Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam VN thành lập nhưng chưa có chủ tịch. Lý do: người được dự kiến giữ vai trò giương cao lá cờ đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước - luật sư Nguyễn Hữu Thọ - đang bị chính quyền Ngô Đình Diệm quản thúc một cách nghiêm ngặt tại tỉnh Phú Yên.

Mãi đến ngày 30-10-1961, ông mới được bộ đội giải cứu và đưa về căn cứ Dương Minh Châu (Tây Ninh) để lãnh đạo mặt trận trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trở thành lãnh tụ “Việt cộng” nổi danh khắp thế giới, hành trình cách mạng của người trí thức bắt đầu từ một cuộc trở về...

Mùa hè 1921, mới 11 tuổi, Nguyễn Hữu Thọ giã từ quê hương Bến Lức (Long An) một mình xuống tàu sang Pháp du học.

Trong 11 năm miệt mài học tập trên đất khách quê người, anh hoàn toàn sống trong môi trường giáo dục Pháp, thông thạo lịch sử, văn chương, văn hóa của Pháp hơn là của VN, nói tiếng Pháp trôi chảy hơn tiếng mẹ đẻ.

Lời mời của Ủy ban Kháng chiến

Tháng 5-1933, về nước, anh tập sự tại văn phòng luật sư Duquesnay ở Mỹ Tho mấy năm, rồi mở văn phòng riêng ở Mỹ Tho, sau chuyển qua Vĩnh Long, Cần Thơ, rồi Sài Gòn.

Năm 1940, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ bị thực dân Pháp dìm trong bể máu. Gương hi sinh dũng cảm của các chiến sĩ cách mạng cũng như những hành động tàn sát dã man của thực dân Pháp khơi dậy tình dân tộc, nghĩa đồng bào tiềm ẩn trong tâm hồn người luật sư trẻ tuổi.

Năm năm sau, Cách mạng Tháng Tám thành công, nhưng niềm vui kéo dài chưa đầy một tháng thì quân Pháp trở lại tái chiếm Nam bộ.

Năm 1946, luật sư Nguyễn Hữu Thọ xuống Vĩnh Long, làm chánh án tòa án dân sự của tỉnh. Anh hoàn toàn không biết rằng mọi hoạt động của anh đều nằm trong “tầm ngắm” của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ.

Anh được nhận xét là một trí thức chân chính, luôn bảo vệ công lý, bênh vực người dân vô tội trước tòa án của thực dân.

Một tối giữa năm 1946, hai thanh niên lạ mặt đến trao cho anh thư của ủy ban mời anh ra Đồng Tháp Mười, thủ đô của kháng chiến Nam bộ lúc ấy. Người ký tên ở cuối bức thư chẳng phải ai xa lạ: Phạm Ngọc Thuần, một luật sư được đào tạo tại Pháp như anh. Vợ anh Thuần, chị Bùi Thị Cẩm, cũng là một đồng nghiệp của anh.

Tại trụ sở của ủy ban - một căn nhà lợp lá dừa nước cất ven kênh Dương Văn Dương - anh được tiếp đón niềm nở. Người đứng đầu ủy ban, tiến sĩ luật sư Phạm Văn Bạch, đang đi công tác xa; luật sư Thuần là quyền chủ tịch ủy ban.

Hai anh trao đổi tình hình, bàn thảo công việc một cách tâm đắc. Vì anh Thọ nói tiếng Việt không trôi chảy lắm nên hai anh sử dụng tiếng Pháp.

Sáng hôm sau, anh Thọ được đưa đi thăm một số cơ quan kháng chiến, một vài đơn vị Vệ quốc đoàn rồi vào xóm thăm dân chúng. Anh thấy cuộc sống trong chiến khu còn nhiều thiếu thốn gian khổ, nhưng từ cán bộ, chiến sĩ đến dân chúng ai cũng lạc quan, tin tưởng, quan hệ đoàn kết, thân ái.

Đặc biệt, buổi gặp gỡ trò chuyện với luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, giáo sư Hoàng Xuân Nhị, kỹ sư Nguyễn Ngọc Nhựt... - những trí thức đã từ bỏ nếp sống vật chất khá giả ở chốn đô thành để lao vào cuộc kháng chiến - đã gợi trong anh nhiều suy nghĩ. Tối hôm ấy, anh đề nghị ủy ban cho anh ra chiến khu tham gia kháng chiến, sẵn sàng nhận bất cứ công tác nào do ủy ban giao.

Đêm cuối cùng ở Đồng Tháp Mười, anh Thuần ôn tồn nói với anh: “Ở đâu có địch, ở đó là chiến trường. Đánh địch ngay trong vùng tạm chiếm là một nhiệm vụ kháng chiến không kém phần quan trọng.

Ủy ban nhận thấy anh Thọ có nhiều điều kiện - về năng lực, về hoàn cảnh... - mà nhiều người không có nên khuyên anh ở lại thành phố tham gia đấu tranh chính trị công khai, hợp pháp với địch, điều đó có lợi cho kháng chiến rất nhiều”.

Trong tòa án thực dân

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ (đứng) và cụ thân sinh (năm 1939)

Ngày 16-10-1949, tiến sĩ luật sư Hoàng Quốc Tân thay mặt Ban trí vận Thành ủy tổ chức kết nạp nhà trí thức yêu nước Nguyễn Hữu Thọ vào Đảng Cộng sản tại số 5 đường Léon Combes (Sương Nguyệt Anh ngày nay) ngay tại trung tâm Sài Gòn đang bị địch chiếm. Trước cờ Đảng, anh thề suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân...
Về lại Vĩnh Long, anh Thọ từ chức chánh án, đưa gia đình lên Sài Gòn, thuê căn nhà số 152 đường De Gaulle (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) vừa làm nhà ở, vừa mở văn phòng luật sư.

Làm theo lời dặn của anh Thuần, anh đến gặp luật sư Hoàng Quốc Tân. Anh Tân là cháu nội của kinh lược sứ Bắc kỳ Hoàng Cao Khải, gọi hai tổng đốc Hoàng Mạnh Trí và Hoàng Trọng Phu bằng bác ruột.

Sau khi đỗ tiến sĩ luật khoa tại Pháp, anh Tân gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Theo lời kêu gọi của Bác Hồ, anh về nước, được Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn phân công phụ trách Ban trí vận, hoạt động ngay trong lòng địch.

Ngày 25-4-1947, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đề nghị hai nước Pháp - Việt mở cuộc đàm phán để sớm kết thúc chiến tranh. Hưởng ứng đề nghị trên, Ban trí vận Thành ủy quyết định đưa ra một bản Tuyên ngôn của trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn kêu gọi Chính phủ Pháp đáp ứng đề nghị nói trên của Chính phủ VN.

Anh Thọ tích cực vận động các nhân sĩ, trí thức ký tên vào bản tuyên ngôn. Chỉ trong một tuần lễ đã có hàng trăm chữ ký của các luật sư, kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ, nhà giáo, nhà báo...

Đúng vào dịp kỷ niệm lần 57 ngày sinh của Bác Hồ, anh Thọ cùng một số nhân sĩ, trí thức tiêu biểu của Sài Gòn - Chợ Lớn vào dinh Norodom trao bản tuyên ngôn tận tay cao ủy Pháp tại Đông Dương Émile Bollaert để chuyển về Chính phủ Paris. Bản tuyên ngôn được đăng tải trên báo tiếng Việt và tiếng Pháp xuất bản trong nước và ở Pháp, gây được tiếng vang lớn.

Tại chiến khu Việt Bắc, sau khi đọc bản tuyên ngôn, Bác Hồ đánh giá cao nhiệt tình yêu nước của nhân sĩ, trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn, viết thư “thay mặt Chính phủ cảm ơn sự ủng hộ của các bạn” (25-5-1947).

Ngày 22-6-1947, Bác Hồ nói chuyện với một nhà báo nước ngoài: “Sài Gòn - Chợ Lớn là nơi quân Pháp đang chiếm đóng. Tỏ lòng ái quốc là một sự nguy hiểm cho người VN. Thế mà hơn 700 người trí thức và tư sản VN ở vùng đó vừa bạo dạn ký giấy đòi Chính phủ Pháp đàm phán với Chính phủ VN”.

Việc làm thường xuyên của anh Thọ là bênh vực các cán bộ kháng chiến trước tòa án của thực dân. Chẳng hạn, vụ biện hộ cho anh Hoàng Xuân Bình, cán bộ Bộ Tư lệnh khu 9, ngày 25-5-1948.

Công tố viên, đại úy Avazeri, buộc anh Bình tội phản quốc mà mức án được qui định từ 5 năm khổ sai đến tử hình. Anh Thọ đã đứng lên phản đối (bằng tiếng Pháp): “Khép thân chủ của tôi vào tội danh phản quốc là một sai lầm căn bản.

Ông Bình không phải là người Pháp, cũng không mang quốc tịch Pháp. Ông là công dân của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, một quốc gia vừa giành được độc lập từ 2-9-1945. Do đó ông có quyền và có bổn phận phải thi hành mọi nghĩa vụ công dân đối với Tổ quốc của mình.

Việc tòa án của Pháp truy tố công dân một nước độc lập trên lãnh thổ quê hương của người ấy là một điều vô giá trị. Tôi đề nghị quí tòa quyết định miễn tố và trả tự do ngay cho thân chủ của tôi”.

Trước lập luận đanh thép của luật sư Thọ, Avazeri phải lùi bước, xin bỏ tội danh “phản quốc” và thay bằng tội danh “hoạt động lật đổ”. Cuối cùng, tòa án chỉ tuyên xử anh Bình 3 năm tù giam.

Đầu năm 1949, anh Thọ bảo lãnh cho anh Bình và kỹ sư Trương Công Phòng (một cán bộ khác của khu 9) được tự do có điều kiện, chỉ phải báo cho cảnh sát biết mỗi khi di chuyển. Anh đưa hai anh về ở tại một ngôi nhà trên đường Duranton (Bùi Thị Xuân ngày nay).

Hai tháng sau, hai anh ngỏ ý muốn trở ra chiến khu để tiếp tục chiến đấu, chỉ sợ cảnh sát làm khó dễ người bảo lãnh. Anh Thọ đáp: “Cảnh sát có cả một bộ máy chuyên theo dõi hai anh mà không biết chuyện hai anh ra lại chiến khu thì tôi làm sao biết được?”.

PHAN VĂN HOÀNG

(Luật Sư Toàn Quốc www.Luatsutoanquoc.com)
CHUYÊN TRANG NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
------------------------------------------- 
LUẬT SƯ QUẢN LÝ - HOTLINE: 0938188889