Dự thảo báo cáo đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ 1

(Dự thảo Báo cáo Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất)   LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM (Dự thảo Báo cáo Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất)  I. LỊCH SỬ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM Quyền bào chữa và quyền được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân trong nhà nước pháp quyền; công dân có thể tự bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ người khác bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án. Xuất phát từ nhu cầu đó, nghề luật sư đã hình thành và phát triển cách đây hàng trăm năm ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, nghề luật sư đã tồn tại từ trước Cách mạng Tháng tám với sắc lệnh ngày 25/5/1930 của thực dân Pháp về việc tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu chính quyền mới đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân. Điều 67 của Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Điều 67 của Hiến pháp năm 1946). Tuy nhiên, không lâu sau khi giành được độc lập, toàn Đảng, toàn dân ta đã phải tập trung sức người, sức của cho cuộc kháng chiến cứu nước. Trong điều kiện đó, tổ chức luật sư không thể tiếp tục duy trì. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều luật gia, luật sư đã ra mặt trận, lên chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính quyền ta kiểm soát. Nhiều luật sư đã giữ cương vị quan trọng trong Chính quyền, trong các cơ quan tư pháp, Toà án như luật sư Phan Anh, luật sư Vũ Văn Hưởng, luật sư Vũ Đình Hoè, luật sư Trần Công Tường, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, luật sư Đỗ Xuân Sảng... Trong điều kiện khó khăn của cuộc kháng chiến, tuy tổ chức luật sư không còn được duy trì, nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến việc bảo đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình. Để cụ thể hóa Sắc lệnh 69/SL ngày 18-6-1949, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 1/NĐ - VY ngày 12-1-1950 quy định về bào chữa viên. Chế định bào chữa viên được hình thành là một chế định phù hợp với điều kiện của nước ta khi đó, thể hiện sự coi trọng, quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đến việc thực thi quyền bào chữa nói riêng và việc xây dựng một nền tư pháp công bằng, dân chủ của chế độ mới. Thực hiện quy định của pháp luật về bào chữa viên, trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa  tiếp theo, đội ngũ bào chữa viên đã được hình thành và ngày càng  phát triển. Đặc biệt sau khi miền Bắc được giải phóng, ngoài các luật sư, luật gia tham gia công tác bào chữa tại các Toà án của chính quyền kháng chiến, nhiều luật sư, luật gia làm việc trong bộ máy tư pháp của chế độ cũ đã hăng hái gia nhập đội ngũ bào chữa viên của chế độ mới. Ở miền Nam, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với các tầng lớp nhân dân miền Nam, các luật sư đã hăng hái tham gia kháng chiến. Nhiều luật sư đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, điển hình là luật sư-Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, luật sư Trịnh Đình Thảo, luật sư Ngô Bá Thành... Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959 (Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm"; Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực hiện quy định của Hiến pháp, trong giai đoạn triển khai xây dựng văn bản pháp luật về tổ chức luật sư, đội ngũ bào chữa viên tiếp tục được củng cố và phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số  691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập một Đoàn bào chữa viên, riêng ở hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh thì thành lập Đoàn luật sư, bào chữa viên, tập hợp các luật sư đã được công nhận trước đây và các bào chữa viên. Thực hiện Thông tư số  691/QLTPK, đến cuối năm 1987, trên cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên. Từ sau ngày giải phóng, miền Nam, thống nhất đất nước đến những năm nửa đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên chúng ta đã phải đối mặt với muôn vàn khó khăn thức thách do sự lạc hậu của cơ chế tập trung quan liêu-bao cấp. Một yêu cầu khách quan, mang tính sống còn đối với đất nước là phải đổi mới, trước hết là xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm 1986 đã mở đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối đổi mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong đó có việc tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ quan tố tụng khác. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành ngày 18/12/1987. Có thể nói, Pháp lệnh tổ chức luật sư là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịh sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn được công nhận là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư. Pháp lệnh cũng đã quy định về việc tổ chức các Đoàn luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương. Thi hành Pháp lệnh tổ chức luật sư, chỉ sau gần 10 năm, ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Đoàn luật sư; đội ngũ luật sư trong cả nước đã đạt tới con số hàng ngàn luật sư. Riêng các Đoàn luật sư Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh số luật sư đã lên đến hàng trăm luật sư. Hoạt động luật sư cũng có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tăng cường một bước về số lượng và chất lượng tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, dân sự, các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động hành nghề sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Sau hơn 10 năm kể từ Đại hội Đảng lần thứ IV, công cuộc đổi mới ở đất nước ta đã thu được những thành tự to lớn và quan trọng. Từ nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan trọng của quá trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế ngày càng trở lên sâu sắc, ở mức độ cao hơn. Cùng với những chủ trương đổi mới mạnh mẽ về kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã đồng thời đề ra và thực thi những chủ trương, biện pháp cải cách mạnh mẽ về tổ chức, hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị, trong đó có đổi mới tổ chức, hoạt động lập pháp, cải cách tổ chức, hoạt động của bộ máy hành chính, cải cách tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, thúc đẩy quá trình hội nhập của đất nước. Trước tình hình đó, để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Với nội dung tiến bộ, phù hợp với yêu cầu khách quan, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể  cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, cũng trong 5 năm đó các luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp danh. Các Đoàn luật sư được xây dựng lại và củng cố để làm đúng chức năng của tổ chức xã hội-nghề nghiệp tự quản của các luật sư. Hoạt động hành nghề của luật sư cũng được tăng lên đáng kể về phạm vi và chất lượng. Trong tham gia tố tụng, nhiều luật sư đã bắt đầu làm quen và dần khẳng định trình độ chuyên môn và bản lĩnh khi tham gia tranh tụng tại phiên toà. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư cũng đã có bước phát triển đáng kể, đặc biệt hoạt động tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, thương mại đã ngày cảng mở rộng về phạm vi, nâng cao về chất lượng dịch vụ. Đã bước đầu hình thành đội ngũ luật sư giỏi trong tham gia tố tụng và trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ pháp lý cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cùng với những bước tiến trong quá trình chuyên nghiệp hoá nghề luật sư, các luật sư Việt Nam cũng đã bước những bước đầu tiên và quan trọng trong quá trình mở rộng quan hệ với các tổ chức luật sư nước ngoài và quốc tế. Bên cạnh hoạt động phối hợp với các tổ chức luật sư, luật sư nước ngoài tổ chức các cuộc hội thảo, toạ đàm về nghề nghiệp, một số Đoàn luật sư đã tham gia các tổ chức luật sư quốc tế với tư cách là thành viên bình đẳng. Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001 là văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta. Trong những năm đầu của thiên niên kỷ XXI, cùng với bước phát triển và những yêu cầu mới của xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính chất đột phá. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại quốc tế  (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức mới to lớn cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, trong đó có nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng với cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Tổ chức, hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động luật sư nói riêng cũng nằm trong bối cảnh chung đó. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban thành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007. Luật Luật sư được ban hành đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư và nghề luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt Luật Luật sư đã quy định hoàn chỉnh hệ thống các tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bao gồm Tổ chức luật sư toàn quốc và các Đoàn luật sư. Với quy định này, Luật Luật sư đã tạo cơ sở  pháp lý nâng cao vai trò tự quản của nghề luật sư. Kính thưa...... Trải qua hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành, đội ngũ luật sư Việt Nam đã vượt qua khó khăn, thử thách, gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Chặng đường phát triển tiếp theo đã được mở ra, nhiều cơ hội và thuận lợi, song cũng không ít khó khăn, thử thách đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu vượt qua. Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất này là dịp để chúng ta ôn lại quá khứ vẻ vang, đồng thời quan trọng hơn là chúng ta tự đánh giá về đội ngũ chúng ta, về nghề luật sư của chúng ta hiện nay, để từ đó đề ra được phương hướng củng cố, hoàn thiện và phát triển đáp ứng yêu cầu và hoà nhập với sự nghiệp phát triển của đất nước. II. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN NGHỀ LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI 1. Thực trạng về tổ chức, hoạt động luật sư 1.1 Về đội ngũ luật sư Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 được ban hành là cơ sở pháp lý hình thành và mở ra triển vọng phát triển đội ngũ luật sư ở nước ta. Tuy nhiên, trong thời gian này, số lượng luật sư trong cả nước tăng chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội ngày càng phát triển. Năm 1989, cả nước có 186 luật sư (trong đó có 85 luật sư kiêm nhiệm, đến tháng 9/2001 trên cả nước có 2.100 luật sư, trong đó có 1.632 luật sư chính thức và 468 luật sư tập sự. Sau khi Pháp lệnh luật sư và Luật Luật sư được ban hành, số lượng luật sư tăng từ 1.883 luật sư và 1.535 luật sư tập sự (tính đến ngày 31/5/2005) lên đến gần 4.200 luật sư và 2.000 người tập sự hành nghề luật sư (tính đến hết tháng 6/2008). Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng luật sư cũng từng bước được nâng lên. Trước hết, về tiêu chuẩn luật sư, Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã đặc biệt chú trọng nâng cao tiêu chuẩn về chuẩn chuyên môn, về phẩm chất đạo đức đối với luật sư. Đồng thời, theo hướng “chuyên nghiệp hoá” đội ngũ luật sư, Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định cán bộ, công chức không được hành nghề luật sư. Có thể nói, trong những năm gần đây, chất lượng của đội ngũ luật sư đã được nâng lên đáng kể, về cơ bản đủ khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý tin cậy cho khách hàng. Trong tổng số luật sư hiện nay, số luật sư có trình độ cử nhân luật trở lên được nâng từ 59% (năm 1989) lên 96,95% (năm 2008); số luật sư có trình độ tương đương đại học luật chỉ còn 128 người, chiếm 3,05%. Số luật sư đã qua đào tạo nghề luật sư chiếm 65,8% tổng số luật sư của cả nước. Trong số những người đã qua đào tạo nghề luật sư, có nhiều người đã tập sự hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam nên có hiểu biết về pháp luật quốc tế và thông thạo ngoại ngữ. Một số luật sư Việt Nam đã theo học các khoá đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài và được công nhận là luật sư của nước sở tại (Mỹ, Úc, Pháp). Tuy đã có sự trưởng thành đáng kể về chất như vậy, nhưng đội ngũ luật sư nước ta còn một số hạn chế sau đây: Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư nước ta trung bình là 1 luật sư/20.700 người dân, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1526, Singapore là 1/1000, Nhật Bản là 1/4546, Pháp là 1/1000, Mỹ là 1/250. Mặt khác, số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Với số lượng luật sư ở nước ta hiện nay, đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng luật sư không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý của nhân dân, ngay cả trong việc thực hiện bào chữa cho bị can, bị cáo mà luật định phải có sự tham gia của luật sư. Trên thực tế, chỉ khoảng 20% vụ án hình sự trong cả nước có sự tham gia của luật sư. Việc không có đủ luật sư tham các vụ án hình sự đã làm ảnh hưởng đến nguyên tắc tranh tụng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án. Đội ngũ luật sư tư vấn cho các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, đầu tư, thương mại còn thiếu trầm trọng. Số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị và khu vực nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Sự phát triển đội ngũ luật sư chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, đặc biệt là TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Riêng các tỉnh Điện Biên, Lai Châu không có luật sư để thành lập Đoàn luật sư theo quy định của Luật Luật sư. Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế. Gần một nửa số lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề. Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình bào chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên toà. Một số luật sư còn có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư. Thứ ba, về mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề, đa số luật sư ở nước ta hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng luật sư ở nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình thành được đội ngũ các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Các luật sư chủ yếu hành nghề trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động, kinh tế…tỷ lệ vụ việc mà các luật sư tham gia tương đối thấp. Đội ngũ luật sư chuyên sâu trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại (sở hữu trí tuệ, tài chính ngân hàng, hàng không, hàng hải, bảo hiểm, thương mại quốc tế, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế…) còn đang trong quá trình hình thành. Do vậy, trong thời gian qua, đối với phần lớn các vụ tranh chấp thương mại quốc tế, các cơ quan, tổ chức của Việt Nam vẫn phải thuê luật sư nước ngoài làm đại diện, tư vấn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.  Thứ tư, đa số luật sư Việt Nam hiện nay tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và các quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức và hành nghề luật sư. Tuy nhiên, việc tuân thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống. Trên thực tế, vẫn còn một số luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi phạm các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư, thậm chí có luật sư vi phạm pháp luật nghiêm trọng đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Những hạn chế nêu trên là do một số nguyên nhân cơ bản sau đây: Một là, nghề luật sư là nghề tự do, các luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng, nên sự phát triển về số lượng của luật sư trước hết phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của xã hội. Do điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta đang phát triển, mức thu nhập của người dân nhìn chung còn thấp và chưa đồng đều, trình độ dân trí nhìn chung chưa cao nên nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý trong xã hội đang ở mức độ thấp. Vì thế, nghề luật sư ở nước ta chưa thực sự có sức hấp dẫn, thu nhập của nhiều luật sư từ hoạt động nghề nghiệp chưa đủ để bảo đảm cuộc sống. Ngoài ra, nhận thức của người dân, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp về vị trí, vai trò của luật sư chưa đầy đủ cũng là một trong những yếu tố tác động đến sự phát triển về số lượng luật sư. Hai là, chất lượng đào tạo cử nhân luật và đào tạo nghề luật sư ở nước ta còn hạn chế. Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo chưa bám sát yêu cầu thực tiễn. Do chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng, kỹ năng tư vấn pháp luật trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại nên nhiều luật sư còn yếu về trình độ, thiếu kinh nghiệm khi tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật. Việc cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, việc trao đổi kinh nghiệm hành nghề chưa được thực hiện thường xuyên. Ngoài ra, một số luật sư chưa có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, chưa tận tuỵ và nhiệt tình với khách hàng, chỉ quan tâm đến thù lao mà coi nhẹ chất lượng hành nghề, từ đó làm giảm sút niềm tin của khách hàng cũng như ảnh hưởng đến uy tín của nghề luật sư. Ba là, công tác theo dõi, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư chưa được quan tâm đúng mức và hiệu quả chưa cao; việc phát hiện, xử lý vi phạm nhiều trường hợp còn chưa kịp thời, chưa nghiêm minh. Việc bồi dưỡng, giáo dục về đạo đức nghề nghiệp chưa được thực hiện thường xuyên. Công tác giáo dục về chính trị tư tưởng cho đội ngũ luật sư  hầu như chưa được quan tâm. Bốn là, một số địa phương chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của luật sư, thiếu sự quan tâm đến việc phát triển đội ngũ luật sư và công tác quản lý luật sư. 1.2. Về hoạt động hành nghề của luật sư Hoạt động hành nghề của luật sư vào những năm đầu phát triển chỉ mới tập trung vào hoạt động tham gia tố tụng tại Toà án. Hoạt động tư vấn pháp luật cho công dân và tổ chức chưa được đẩy mạnh trong hầu hết các Đoàn luật sư, thậm chí có Đoàn luật sư trên thực tế chưa tổ chức thực hiện hình thức giúp đỡ pháp lý quan trọng này. Sau khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động hành nghề luật sư có những bước chuyển biến rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng thông thoáng hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng. Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án. Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển về chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các cơ quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự. Đặc biệt sau khi Nghị Quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã nêu rõ: "Khi xét xử, các toà án ...việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa... Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia cào quá trình tố tụng ...", thì vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã được nâng lên một bước. Nhiều cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát đã tạo điểu kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng được thuận lợi hơn. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã được cơ quan công tố quan tâm và coi trọng. Thực tiễn thời gian qua cho thấy hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã góp phần bảo đảm thực hiện tương đối tốt nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà, một trong những yêu cầu trọng tâm của cải cách tư pháp. Việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.  Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc biệt trong điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh. Các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh tế, đầu tư, thương mại. Trong lĩnh vực tư vấn về pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai, hôn nhân gia đình đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật đang phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực mới mẻ như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ, quan hệ thương mại hàng hoá có yếu tố nước ngoài...Có nhiều luật sư đã tham gia tư vấn cho những hợp đồng thương mại, những dự  án đầu tư lớn đạt kết quả tốt, được khách hàng trong nước và nước ngoài tin tưởng. Nhiều luật sư làm việc cho các tập đoàn đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam, tại các khu công nghiệp tập trung và là cộng sự của hãng luật nổi tiếng nước ngoài trong việc trợ giúp phía Việt Nam trong một số vụ kiện lớn, như vụ kiện phá giá cá basa tại Uỷ ban thương mại quốc tế của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế xã hội còn thấp và tính không đồng bộ trong đào tạo nghề luật sư với nhu cầu thực tế nên hoạt động tư vấn pháp luật của các luật sư hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Chúng ta chưa phát huy được các lợi thế để có thể cạnh tranh về lĩnh vực tư vấn pháp luật quốc tế và thương mại với các luật sư nước ngoài ngay trên lãnh thổ Việt nam. Vì vậy, trong thời gian tới, một yêu cầu bức xúc đặt ra đối với đội ngũ luật sư Việt Nam là phải được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề, ngoại ngữ để nâng cao chất lượng hành nghề, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Ngoài lĩnh vực tham gia tố tụng và tư vấn pháp luật thì các dịch vụ pháp lý khác mà phổ biến là giúp cá nhân, tổ chức thực hiện các thủ tục pháp lý như thủ tục thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng bất động sản, xuất nhập cảnh v.v… cũng đã được các luật sư  quan tâm và đang có chiều hướng phát triển, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Hoạt động đại diện ngoài tố tụng còn rất mới mẻ đối với các luật sư và hiện nay chưa thực sự phổ biến. Tuy nhiên, gần đây đã có những tổ chức hành nghề luật sư và luật sư đại diện cho khách hàng trong các giao dịch kinh doanh, thương mại có kết quả được khách hàng tín nhiệm. Các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào hoạt động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách. Có thể nói, mặc dù còn những hạn chế, nhưng hoạt động của luật sư thời gian qua đã đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.3 Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư Pháp lệnh luật sư 2001, Luật Luật sư quy định nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Theo đó, Đoàn luật sư là tổ chức xã hội-nghề nghiệp đại diện, bảo vệ quyền lợi của các luật sư; quản lý hoạt động nghề nghiệp của các luật sư, giám sát việc tuân theo pháp luật và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp; thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các luật sư... Trong thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với luật sư và hành nghề luật sư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ Đoàn luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm. Một số Đoàn luật sư đã tổ chức các hội thảo chuyên đề cho luật sư, đặc biệt là tổ chức rút kinh nghiệm đối với luật sư trong các vụ án lớn có tính chất trọng điểm mà luật sư tham gia theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị để đánh giá những mặt được và chưa được, tích cực và hạn chế về quan điểm bào chữa, kiến thức pháp luật, kỹ năng tham gia tranh tụng, phong cách, văn hoá ứng xử của luật sư. Các Đoàn luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn phí, bào chữa miễn phí. Một số Đoàn luật sư đã kịp thời phản ánh những tâm tư, nguyện vọng của luật sư, đề xuất, kiến nghị với cơ quan Đảng và Nhà nước về cơ chế, chính sách phát triển nghề luật sư, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc liên quan đến tổ chức, hoạt động luật sư. Tuy nhiên, hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư còn một số hạn chế, bất cập sau đây: Thứ nhất, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư còn chưa cao. Những quy chế quản lý nội bộ cần thiết cho việc quản lý, điều hành Đoàn luật sư như Quy chế làm việc của Ban Chủ nhiệm, Quy chế giám sát việc tập sự, giám sát, kiểm tra việc tuân thủ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư...chưa được quan tâm xây dựng hoặc đã được ban hành nhưng nội dung còn sơ sài, chưa phát huy tác dụng cao trong thực tế. Thứ hai, nhìn chung, các Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư. Đoàn luật sư chưa thực sự là nơi tập hợp những bức xúc, khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị của luật sư liên quan đến hoạt động hành nghề và đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực tế thời gian qua cho thấy, việc một số Đoàn luật sư chưa làm tốt nhiệm vụ này đã dẫn đến hiện tượng một số luật sư tự phát đứng ra tổ chức các hoạt động ngoài sự quản lý của Đoàn (ví dụ: Nhóm luật sư vì công lý, vận động thành lập tổ chức luật sư toàn quốc). Thứ ba, một số Đoàn luật sư chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho luật sư; công tác giám sát, quản lý người tập sự hành nghề luật sư còn mang tính hình thức. Việc quản lý hành nghề của luật sư có lúc, có nơi còn có biểu hiện buông lỏng hoặc vượt quá tầm kiểm soát của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư. Việc xử lý kỷ luật đối với luật sư vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư chưa nghiêm, chưa kịp thời, vẫn còn hiện tượng nể nang, e dè hoặc bao che làm cho dư luận xã hội không đồng tình. Thứ tư, một số Đoàn luật sư phối hợp chưa tốt với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc quản lý hành nghề luật sư. Nguyên nhân cơ bản là do nhận thức không đúng về vai trò quản lý nhà nước, quá đề cao vai trò tự quản của Đoàn luật sư hoặc muốn thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, việc quản lý hành nghề luật sư ở những địa phương này kém hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức và hoạt động luật sư ở địa phương Về công tác tự quản của tổ chức luật sư, cũng cần nói đến vai trò của các tổ chức hành nghề luật sư. Sau 4 năm thi hành Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã có 803 tổ chức hành nghề luật sư được thành lập và đến nay, trên cả nước đã có gần 1.500 tổ chức hành nghề luật sư, bao gồm các văn phòng luật sư, công ty luật hợp danh, công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Các tổ chức hành nghề luật sư cũng đang từng bước phát triển về chất. Quy mô của tổ chức hành nghề luật sư ngày càng lớn hơn, đã có những văn phòng luật sư, công ty luật có tới vài chục luật sư. Việc tổ chức, điều hành văn phòng luật sư, công ty luật cũng được cải tiến, tiếp cận gần hơn với cách tổ chức, điều hành tiên tiến, hiện đại của các công ty luật ở các nước trên thế giới. Một số tổ chức hành nghề luật sư đã cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho cá nhân, tổ chức nước ngoài, tham gia giải quyết tranh chấp lớn có yếu tố nước ngoài. Một số công ty luật đã có nhu cầu, khả năng và trong thực tế đã thuê luật sư nước ngoài làm việc cho công ty mình. Tuy nhiên, nhìn chung các tổ chức hành nghề luật sư ở nước ta hiện nay đa phần chỉ là các văn phòng luật sư với quy mô rất nhỏ. Một số công ty luật có quy mô lớn hơn, nhưng cũng chưa có công ty luật nào đạt tới quy mô trên 100 luật sư. So với các nước trong khu vực và đặc biệt là các nước tiên tiến trên thế giới, quy mô các tổ chức hành nghề luật sư của nước ta còn rất nhỏ bé, khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý còn khiêm tốn. Tổ chức hành nghề luật sư đại diện cho các luật sư của tổ chức mình trong các giao dịch với khách hàng. Luật sư thực hiện công việc theo sự phân công của tổ chức hành nghề; ký hợp đồng dịch vụ pháp lý và thu thù lao từ khách hàng thông qua tổ chức hành nghề mà mình hoạt động. Tổ chức hành nghề luật sư chịu trách nhiệm trước khách hàng trong trường hợp luật sư của Văn phòng gây thiệt hại cho khách hàng. Chất lượng dịch vụ và uy tín của luật sư chính là chất lượng dịch vụ và uy tín của tổ chức hành nghề luật sư. Chính vì vậy, các tổ chức hành nghề luật sư phải là tổ chức quan tâm đầu tiên đến chất lượng hoạt động luật sư, đến việc bồi dưỡng về chuyên môn, bồi dưỡng, giáo dục và giám sát về đạo đức nghề nghiệp đối với luật sư của tổ chức mình. Trong thời gian qua, đa số các tổ chức hành nghề luật sư đã làm tốt công việc giáo dục, giám sát luật sư trong việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, một số tổ chức hành nghề luật sư chưa thực sự quan tâm đến công việc này, đồng thời có biểu hiện lỏng lẻo trong việc quản lý các luật sư của tổ chức mình, để xảy ra hiện tượng luật sư vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà tổ chức không biết hoặc bỏ qua. Trong công tác quản lý luật sư, không thể thiếu sự phối hợp giữa Đoàn luật sư và cơ quan quản lý nhà nước. Nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được quy định tại Pháp lệnh luât sư năm 2001. Luật Luật sư cũng quy định và làm rõ hơn nguyên tắc này. Việc kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tổ chức luật sư đã được thể hiện ngay từ quy định về điều kiện hành nghề luật sư; theo đó, một người muốn hành nghề luật sư thì phải có Chứng chỉ hành nghề do cơ quan nhà nước cấp và phải gia nhập Đoàn luật sư. Để bảo đảm và nâng cao chất lượng công tác quản lý của Đoàn luật sư đối với các luật sư, Pháp lệnh luật sư, Luật Luật sư đã tăng cường đáng kể quyền hạn và trách nhiệm của Đoàn luật sư. Ngoài việc đại diện, bảo vệ quyền lợi của các luật sư; Đoàn luật sư còn có vai trò rất quan trọng trong quản lý hoạt động nghề nghiệp của các luật sư. Trong thời gian qua việc thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần phát triển số lượng luật sư, nâng cao chất lượng hành nghề luật sư, duy trì việc tuân theo pháp luật, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của luật sư theo đúng định hướng mà Đảng, Nhà nước đã đề ra. Tuy nhiên trong việc thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư nói riêng và công tác quản lý luật sư nói chung còn nhiều hạn chế do một số nguyên nhân sau đây: Thứ nhất, việc hiểu về bản chất, nội dung của nguyên tắc quản lý luật sư nêu trên còn chưa thống nhất. Có xu hướng quá đề cao thậm chí tuyệt đối hoá tính tự quản của nghề luật sư, ngược lại có xu hướng quan niệm về quản lý nhà nước đối với nghề luật sư không phù hợp với tính chất của nghề luật sư là một nghề tự do, có tính độc lập cao trong hành nghề. Quan niệm chưa đúng và chưa thống nhất nêu trên là một nguyên nhân làm cho hiệu quả của công tác quản lý luật sư chưa cao. Vì vậy việc cụ thể hoá nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư cần được thể hiện trong các văn bản của nhà nước hướng dẫn thi hành Luật Luật sư và trong Điều lệ Liên đoàn luật sư. Thứ hai, nghề luật sư ở nước ta còn non trẻ, đang trong quá trình phát triển. Nghề luật sư có tính chất tự quản cao so với các nghề nghiệp khác trong xã hội, các luật sư là những người có trình độ pháp luật, hành nghề tự do, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp của mình. Phạm vi hoạt động của các luật sư rất rộng cả về lĩnh vực hành nghề cũng như địa bàn hoạt động. Tính chất đặc thù của nghề luật sư là một trong những nguyên nhân gây khó khăn không nhỏ cho hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý hành nghề luật sư. Thứ ba, chưa xây dựng được các Quy chế phối hợp về quản lý hành nghề luật sư giữa các cơ quan quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan tổ chức khác có liên quan và các Đoàn luật sư. Thứ tư, tổ chức luật sư toàn quốc chưa được thành lập nên hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương đến địa phương chưa hoàn chỉnh, chưa có đầu mối thống nhất đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các Đoàn luật sư, các luật sư, phối hợp với Bộ Tư pháp trong quản lý về tổ chức và hoạt động của luật sư. Vì vậy, vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư, cũng như công tác quản lý nhà nước đối với luật sư trong phạm vi cả nước chưa thực sự phát huy được hiệu quả cao. 2. Những yêu cầu đổi mới và phát triển nghề luật sư ở Việt Nam Trong những năm qua, cùng với việc cải cách bộ máy nhà nước và cải cách nền hành chính, trong nhiều nghị quyết của Đảng ta đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp. Cải cách tư pháp luôn được coi là một bộ phận quan trọng gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt nam. Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch vững mạnh có phương thức tổ chức, hoạt động khoa học, hiện đại góp phần quan trọng vào việc giữ gìn trật tự kỷ cương phép nước. Nội dung chủ yếu của cải cách tư pháp là củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm quyền của Toà án, đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và tổ chức bổ trợ tư pháp, trong đó có tổ chức luật sư. Như vậy, đổi mới tổ chức và hoạt động luật sư là một trong những nội dung của cải cách tư pháp và có mối quan hệ chặt chẽ với hoạt động tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đổi mới và phát triển tổ chức và hoạt động luật sư phải được đặt trong bối cảnh cải cách tư pháp nói riêng và trong tổng thể cải cách bộ máy nhà nuớc nói chung, phải gắn với mục tiêu và những định hướng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược cải cách bộ máy nhà nước, đặc biệt là chiến lược cải cách tư pháp. Chúng ta đã biết, sứ mệnh của luật sư là góp phần bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Hoạt động của luật sư có mối quan hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động tư pháp. Hoạt động của luật sư còn là phương tiện hữu hiệu giúp cho cá nhân, tổ chức bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với vị trí, vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội nói chung, trong hoạt động tư pháp nói riêng, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác phát triển tổ chức và hoạt động luật sư. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ:” Đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động luật sư…phù hợp với chủ trương xã hội hoá, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất đạo đức, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ trong tư vấn pháp luật và trong tố tụng”. Nghị quyết 08 NQ/TƯ ngày 2-1-2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã đặc biệt quan tâm đến vai trò của luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp trong việc bảo đảm hoạt động của luật sư trong tố tụng. Nghị quyết đã nêu rõ: “ nâng cao chất lượng công tố của kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác”; “các cơ quan tư pháp có trách nhiệm để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng; tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà…”. Đặc biệt Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ định hướng chiến lược phát triển nghề luật sư ở nước ta là "Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức hành nghề luật sư đối với thành viên của mình". Nghề luật sư ở nước ta đang đứng trước vận hội mới với những triển vọng to lớn. Những nội dung cải cách tư pháp đang được triển khai theo chiều sâu với quyết tâm mạnh mẽ hơn là điều kiện thuận lợi để luật sư tham gia sớm hơn, thực chất hơn vào quá trình giải quyết các vụ án, đặc biệt là trong việc tranh tụng tại phiên toà. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là của doanh nghiệp cũng gia tăng nhanh chóng; số lượng vụ việc, khách hàng của luật sư sẽ nhiều hơn, đa dạng hơn; phạm vi hoạt động hành nghề của luật sư ngày càng được mở rộng. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo nhiều cơ hội cho luật sư phát triển quan hệ hợp tác, giao lưu với các đối tác nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, nghề luật sư ở nước ta cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ. Yêu cầu của xã hội về chất lượng dịch vụ, trách nhiệm pháp lý, kỷ luật hành nghề đối với luật sư ngày càng cao; với việc thực hiện những cam kết trong khuôn khổ WTO, sự cạnh tranh trên thị trường dịch vụ pháp lý trong nước và quốc tế ngày càng gay gắt. Trong khi đó, đội ngũ luật sư ở nước ta hiện nay đang còn ít về số lượng, nhìn chung còn yếu về chất lượng, chưa có nhiều cơ hội để cọ xát, rèn luyện kỹ năng hành nghề trong môi trường cạnh tranh nghề nghiệp.  Trước tình hình đó, việc tiếp tục củng cố, phát triển mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư theo định hướng chiến lược mà Đảng đã đề ra, nhằm kịp thời đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng cao của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế là yêu cầu to lớn và cấp thiết.   III. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG LUẬT SƯ TRONG THỜI GIAN TỚI 1. Phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng và mạnh về chất lượng Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra nhiệm vụ "đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn". Việc phát triển số lượng luật sư đủ đáp ứng nhu cầu của xã hội là yêu cầu thường xuyên và lâu dài. Để đạt được mục tiêu này, cần thực hiện một số biện pháp sau đây: Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức và của mỗi người dân về vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, góp phần tăng tính hấp dẫn của nghề luật sư, thu hút ngày càng đông đội ngũ cử nhân luật mới ra trường tham gia hành nghề luật sư. Hai là,  có quy hoạch, kế hoạch cụ thể phát triển số lượng luật sư phù hợp với nhu cầu của xã hội. Đối với các thành phố lớn, một mặt đáp ứng được nhu cầu của những người có đủ điều kiện và có nguyện vọng gia nhập Đoàn luật sư, mặt khác bảo đảm điều kiện và chất lượng tập sự, bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của Đoàn luật sư đối với đội ngũ luật sư tập sự của Đoàn. Đối với những địa phương có khó khăn về nguồn bổ sung luật sư, cần có các biện pháp chủ động phát hiện, động viên những người có đủ điều kiện, đang sinh sống tại địa phương gia nhập Đoàn luật sư. Liên đoàn luật sư khi được thành lập cần sớm thành lập sơ sở đào tạo nghề luât sư, phối hợp chặt chẽ với cơ sở đào tạo nghề luật sư của nhà nước để bảo đảm số lượng và chất lượng đào tạo. Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư cả về nghiệp vụ chuyên môn, phẩm chất đạo đức là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài. Trước mắt, cần có những biện pháp khắc phục những yếu kém, những "lỗ hổng" về chuyên môn, những biểu hiện trái với đạo đức nghề nghiệp luật sư trong đội ngũ luật sư. Về lâu dài, chúng ta phải phấn đấu xây dựng đội ngũ luật sư Việt Nam có trình độ ngang tầm với luật sư khu vực và thế giới, trong đó có luật sư "tầm cỡ" quốc tế về tranh tụng và tư vấn trong các lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Muốn vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta cần xúc tiến một số việc sau đây: Một là, cải tiến nội dung, phương pháp để nâng cao chất lương đào tạo nghề luật sư, nâng cao chất lượng tập sự hành nghề luật sư thông qua việc các Đoàn luật sư thực hiện nghiêm túc cơ chế giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật sư hướng dẫn, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân theo Quy chế tập sự hành nghề luật sư; tạo điều kiện thuận lợi để người tập sự được nghiên cứu, tiếp cận những kiến thức pháp luật mới, đồng thời tạo cơ hội cho người tập sự được trực tiếp tham gia hoạt động nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng hành nghề. Liên đoàn luật sư cần quan tâm đến việc hướng dẫn và giám sát việc thực hiện Quy chế tập sự hành nghề luật sư. Hai là,  định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề cho các luật sư cũng như tổ chức tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư và thực hiện các biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ luật sư. Liên đoàn luật sư cần lập kế hoạch, chương trình bồi dưỡng có chất lượng và hướng dẫn các Đoàn luật sư thực hiện. Ba là, có phương hướng và biện pháp xây dựng đội ngũ luật sư hành nghề chuyên sâu, đặc biệt phát triển đội ngũ luật sư chuyên hành nghề trong lĩnh vực đầu tư thương mại quốc tế đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Phát triển các tổ chức hành nghề luật sư và nâng cao vai trò của tổ chức hành nghề luật sư trong việc quản lý luật sư và nâng cao chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư. Cần tiếp tục phát triển các tổ chức hành nghề luật sư phù hợp với nhu cầu và điều kiện của từng địa phương. Đẩy mạnh quá trình chuyên nghiệp hoá, quy mô hoá các tổ chức hành nghề luật sư. Phấn đấu trong khoảng 5 năm tới có một số tổ chức hành nghề luật sư lớn với trên dưới 100 luật sư, đủ khả năng tham gia cung cấp dịch vụ pháp lý tầm cỡ quốc tế. Tổ chức hành nghề luật sư là nơi luật sư hành nghê thường xuyên, vì vậy trong công tác quản lý luật sư, tổ chức hành nghề luật sư phải tăng cường kiểm tra, giám sát các luật sư trong việc tuân theo đạo đức nghề nghiệp, giám sát chặt chẽ về quá trình tập sự hành nghề luật sư của những người tập sự; đồng thời tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho các luật sư tại tổ chức mình. Các tổ chức hành nghề luật sư phải tiếp tục nâng cao trình độ, tạo một bước chuyển biến quan trọng về chất lượng hành nghề luật sư. Có kế hoạch, biện pháp khắc phục những nhược điểm, những yếu kém về chuyên môn, tiêu cực về đạo đức nghề nghiệp, đồng thời phát huy những ưu điểm, mặt tích cực của luật sư trong hoạt động tham gia tố tụng. Đẩy mạnh dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư theo hướng nâng cao chất lượng tư vấn, mở rộng phạm vi nội dung và đối tượng tư vấn, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại trong nước và quốc tế. Các tổ chức hành nghề luật sư cần phải quan tâm hơn nữa đến công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho các luật sư; nghiên cứu xây dựng chuẩn mực về văn hoá tranh tụng và văn hoá ứng xử nói chung của luật sư. 3. Củng cố, phát triển và nâng cao vai trò tự quản của các Đoàn luật sư. Trước mắt cần tiến hành củng cố các Đoàn luật sư và kiện toàn các cơ quan của Đoàn theo quy định của Luật Luật sư, tập hợp, phát huy trí tuệ và tinh thần trách nhiệm của các luật sư trong mỗi Đoàn luật sư để xây dựng Điều lệ mới của Đoàn mình với chất lượng cao nhất. Đồng thời, chuẩn bị tốt nhất các điều kiện khác để các Đoàn luật sư sớm ổn định về tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Luật sư. Về lâu dài, các Đoàn luật sư cần có kế hoạch lựa chọn, bồi dưỡng những luật sư có năng lực, uy tín và trách nhiệm để bầu vào Ban chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật; xây dựng bộ máy Đoàn luật sư gọn nhẹ, có hiệu quả; đặc biệt nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Ban chủ nhiệm trong việc quản lý và điều hành tổ chức hoạt động của Đoàn luật sư. Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư phải là những người gương mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và Điều lệ Đoàn luật sư; cải tiến lề lối làm việc; tiếp tục củng cố khối đoàn kết nội bộ, xây dựng Đoàn luật sư thực sự là mái nhà chung của luật sư, xứng đáng là người đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, đồng thời phối hợp và hợp tác chặt chẽ với cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý tổ chức và hoạt động luật sư. Các Đoàn luật sư tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khắc phục những nhược điểm, đề ra các biện pháp thường xuyên củng cố, kiện toàn, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chủ nhiệm và các cơ quan của Đoàn luật sư. Các Đoàn luật sư đã ban hành những văn bản quy định nội bộ (như Điều lệ Đoàn luật sư, Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Quy chế tập sự, quy định về phân công và nhận bào chữa đối với các vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng v.v.) cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định mới và thực tiễn quản lý, điều hành. Những Đoàn luật sư chưa ban hành những văn bản quy định nội bộ cần nghiên cứu, xây dựng và ban hành theo hướng dẫn của Liên đoàn luật sư Việt Nam.  Đoàn luật sư cần tăng cường việc kiểm tra, giám sát các luật sư trong việc tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu; phát hiện và xử lý nghiêm minh những luật sư vi phạm theo thẩm quyền của Đoàn luật sư hoặc kịp thời đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý; thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên đề, có kế hoạch bồi dưỡng chính trị tư tưởng, chuyên môn nghiệp vụ cho luật sư; tăng cường vai trò của Đoàn luật sư với các tổ chức hành nghề luật sư thông qua việc có mối liên hệ thường xuyên với luật sư là Trưởng Văn phòng luật sư, Giám đốc Công ty luật; chủ động phối hợp với Sở Tư pháp trong việc kiểm tra, giám sát các tổ chức hành nghề luật sư, hoạt động hành nghề của luật sư; kịp thời nắm bắt vướng mắc, nguyện vọng của các luật sư để phản ánh, kiến nghị với các cơ quan Đảng và nhà nước. Thúc đẩy tiến trình thành lập Đoàn luật sư ở hai tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Có kế hoạch xây dựng hai Đoàn luật sư Hà Nội và Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh tương xứng với vị trí là hai Đoàn luật sư lớn nhất của cả nước.  4. Xây dựng Liên đoàn luật sư đủ năng lực thực hiện chức năng đại diện, bảo vệ quyền lợi của các luật sư và công tác tự quản của tổ chức luật sư. 4.1. Mục tiêu, phương hướng chung Liên đoàn luật sư được thành lập phải tạo chuyển biến lớn về chất trong công tác quản lý và hành nghề luật sư. Để đạt được mục tiêu này, cần thực hiện những công việc lớn sau đây: Thứ nhất, từng bước xây dựng và kiện toàn tổ chức và hoạt động của Liên đoàn luật sư nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhất tôn chỉ, mục đích và những nhiệm vụ quyền hạn của Liên đoàn luật sư đã được Luật Luật sư và Điều lệ Liên đoàn luật sư quy định. Thứ hai, xây dựng cơ chế hiệu quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư, các Đoàn luật sư, cơ chế giám sát chặt chẽ việc tuân theo đạo đức và ứng sử nghề nghiệp, nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp và lối sống của đội ngũ luật sư góp phần xây dựng đội ngũ luật sư giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức, có bản lĩnh chính trị. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm cho luật sư thực hiện tốt các quyền, nghĩa vụ của luật sư trong tố tụng. Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng chính trị và đạo đức nghề nghiệp cho luật sư bảo đảm mục tiêu xây dựng đội ngũ luật sư đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Thứ tư, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường giao lưu, tạo cơ hội cho các luật sư được học hỏi kinh nghiệm, trao đổi nghiệp vụ với các cơ quan, tổ chức trong và ngoài nước, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế của luật sư Việt Nam ở trong nước và quốc tế.  Thứ năm, tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa Liên đoàn luật sư và các Đoàn luật sư với các cơ quan quản lý nhà nước về hành nghề luật sư ở Trung ương và các địa phương nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư. 4.2. Nhiệm vụ của Liên đoàn luật sư Việt Nam nhiệm kỳ I Nhiệm kỳ I là nhiệm kỳ hết sức quan trọng mở đầu cho quá trình xây dựng, phát triển và tự khẳng định vai trò, vị trí của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Để hoàn thành được mục tiêu này, Liên đoàn luật sư nhiệm kỳ I cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau đây: Thứ nhất, sau khi Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất được tổ chức thành công, cần nhanh chóng củng cố bộ máy tổ chức của Liên đoàn luật sư Việt Nam, phân công công việc hợp lý cho các thành viên trong các cơ quan của Liên đoàn để đảm bảo bộ máy hoạt động có hiệu quả cao. Thứ hai, tuyên truyền và quán triệt phương hướng nhiệm vụ hoạt động trong nhiệm kỳ; đảm bảo việc sinh hoạt thường kỳ đều đặn và theo đúng quy định của Điều lệ Liên đoàn, đồng thời tăng cường đoàn kết và quan hệ mật thiết giữa các thành viên của Liên đoàn.  Thứ ba,  xây dựng và ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư; phối hợp với Bộ Tư pháp xây dựng và ban hành Quy chế tập sự hành nghề luật sư; Quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà, phát hành mẫu Thẻ luật sư, cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư; Quy định việc miễn, giảm thù lao, trợ giúp pháp lý miễn phí của luật sư, việc giải quyết tranh chấp liên quan đến thù lao, chi phí của luật sư; Quy định phí tập sự hành nghề luật sư, phí gia nhập Đoàn luật sư, phí thành viên... Thứ tư, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư và khách hàng. Thứ năm, phát huy tốt chức năng tập hợp, phản ánh tâm tư nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của đội ngũ luật sư liên quan đến hoạt động hành nghề và đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;  phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và các cơ quan tiến hành tố tụng sớm ban hành văn bản liên tịch hướng dẫn hoạt động tham gia tố tụng của luật sư. Thứ sáu, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, xây dựng mối quan hệ giữa Liên đoàn luật sư Việt Nam, các Đoàn luật sư với các tổ chức luật sư quốc tế và tổ chức luật sư các nước có hoạt động phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Liên đoàn luật sư Việt Nam; tích cực huy động các nguồn tài trợ trong nước và nước ngoài để hỗ trợ cho công tác bồi đào tạo và bồi dưỡng luật sư cũng như các hoạt động khác cua Liên đoàn. Thứ bảy, xây dựng cơ sở đào tạo nghề luật sư, quản lý chặt chẽ, bảo đảm việc đào tạo đúng hướng, đúng mục tiêu và có chất lượng. Thứ tám, chuẩn bị và phát hành các ấn phẩm về nghề luật sư như tạp chí, báo thực sự là cơ quan phát ngôn của Liên đoàn luật sư, tiếng nói của giới luật sư, là phương tiện để các luật sư trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, các Đoàn luật sư trao đổi kinh nghiệm tổ chức, quản lý, đồng thời quảng bá, nâng cao hiểu biết của cộng đồng về nghề luật sư. Kính thưa............. Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần này là Đại hội đầu tiên của giới luật sư Việt Nam. Đây là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử đối với các luật sư, đánh dấu một bước hoàn thiện và trưởng thành của tổ chức luật sư, của nghề luật sư ở nước ta, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm, tin tưởng của Đảng, Nhà nước ta đối với đội ngũ luật sư. Các đại biểu tham dự Đại hội này là các luật sư tiêu biểu, đại diện cho hơn 4000 luật sư và 62 Đoàn luật sư trong cả nước. Thay mặt Hội đồng lâm thời luật sư toàn quốc, tôi xin nhiệt liệt chào mừng các đại biểu tham dự Đại hội. Tại Đại hội này, các đại biểu sẽ thực hiện những công việc hết sức trọng đại, đó là thảo luận, thông qua bản Điều lệ đầu tiên của Liên đoàn luật sư Việt Nam, phương hướng phát triển tổ chức, hoạt động luật sư và phương hướng hoạt động của Liên đoàn luật sư, đồng thời sẽ bầu ra các cơ quan lãnh đạo và điều hành của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Chúng tôi tin tưởng rằng, với trí tuệ và tinh thần trách nhiệm cao, các đại biểu sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động của Đại hội, góp phần vào sự thành công của Đại hội. Từ diễn đàn của Đại hội lịch sử này, thay mặt Đại hội, chúng tôi kêu gọi các luật sư trong cả nước đoàn kết chặt chẽ, phát huy tinh thần trách nhiệm và trí tuệ, phấn đấu thực hiện thành công Nghị quyết và các quyết định của Đại hội, góp phần xây dựng và phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta theo phương hướng chiến lược của Đảng và phương hướng, nhiệm vụ phát triển tổ chức hoạt động luật sư ở Việt Nam mà Đại hội đề ra.   
CHUYÊN TRANG NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
------------------------------------------- 
LUẬT SƯ QUẢN LÝ - HOTLINE: 0938188889