Hồ sơ mật về vụ cướp ngân hàng Brink (Phần III)

tượng khác chỉ là những kẻ liên quan đến hành vi nhận và chứa chấp tài sản cướp được.

Bắt giữ

6 thành viên gồm Baker, Costa, Geagan, Maffie, McGinnis và Pino bị nhân viên FBI bắt giữ vào ngày 12/1/1956. Sau đó chúng bị quản chế tại ngoại do mỗi tên nộp hơn 100.000 USD bảo lãnh.

3 trong số 5 thành viên còn lại gồm O'Keefe và Gusciora thì đang ngồi tù vì các vụ án khác, Banfield thì bệnh tật nặng sắp chết.  Faherty và Richardson Fled kịp đào tẩu trước khi bị bắt, ngay lập tức bị liệt vào danh sách “10 tội phạm bị truy nã gắt gao nhất” của FBI. Tuy nhiên, 2 tên này bị bắt vào ngày 16/5/1956 trong một cuộc tấn công bất ngờ của các nhân viên FBI vào căn hộ chúng đang ẩn náu ở Dorchester, Massachusetts. Chúng bị bắt mà không kịp sử dụng 3 khẩu súng để trên một chiếc ghế trong buồng tắm. Khám xét nơi ẩn náu, các nhân viên FBI còn thu được hơn 5.000 USD tiền kim loại.

Vào ngày 13/1/1956, dựa vào kết quả quá trình điều tra của FBI, Bồi thẩm đoàn ở Suffolk, Massachusetts tiếp tục xem xét cáo trạng đối với 11 thành viên của nhóm cướp Ngân hàng Brink. O'Keefe là nhân chứng chính trong quá trình xét xử bọn cướp.

Nút thứ nhất mở vụ án: Những tờ USD mốc rơi trên đường

Mặc dù đã bắt được nhóm cướp Ngân hàng Brink vào tháng 1/1956, nhưng hơn 2.775.000 USD, trong đó có hơn 1.218.211,29 USD tiền mặt vẫn biệt tăm.  O'Keefe không biết nơi các thành viên nhóm cướp giấu phần được chia ở đâu, hoặc chúng đã sử dụng số tiền này như thế nào. Trên thực tế, nếu không nắm được mẩu thông tin nào về chuyện này thì bọn cướp sẽ không chịu khai báo gì.

Tuy nhiên, vào đầu tháng 6/1956, một sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 3/6/1956, một sĩ quan cảnh sát ở Baltimore, Maryland nhận được tin từ một người đổi tiền cho biết có một kẻ lạ đã đưa cho ông ta tờ 10 USD giả ở gần một quán trọ. Người đàn ông này đã đi theo kẻ lạ mặt đó cho tới khi gặp được viên cảnh sát.

Xem xét tờ  USD này, viên cảnh sát thấy nó đã mốc meo và nhận ra kẻ vứt tiền là một gã lưu manh ở Boston. Trong lúc viên cảnh sát và người đổi tiền nói trên chặn kẻ lạ lại để hỏi thì y đút tay vào túi rồi nhanh chóng rút tay ra và thu tay vào trong chiếc áo mưa đang mặc. 2 nhân viên cảnh sát khác đang bước trên phố gần đó không bỏ sót động thái này của tên lưu manh. Một trong 2 nhân viên cảnh sát này nhanh chóng tóm lấy tay hắn thì một cuộn tiền lớn từ tay hắn rơi xuống.

Gã lưu manh bị dẫn tới trụ sở cảnh sát để kiểm tra. Khám người gã, cảnh sát phát hiện gã mang theo hơn 1.000 USD, trong đó có 860 USD có mùi mốc. Một nhân viên của Cơ quan Mật vụ Mỹ được mời đến trụ sở cảnh sát để giám định số tiền này. Sau khi nghiên cứu, nhân viên mật vụ khẳng định số tiền này là tiền thật.

Một trong những gói tiền giấu trong bức tường tại văn phòng của John "béo" trên đường ở Boston

Gã lưu manh khai tình cờ phát hiện số tiền này và còn một cuộn tiền lớn để tại căn phòng khách sạn của hắn. Một cuộc kiểm tra đã được thực hiện tại phòng của gã lưu manh trong một khách sạn ở  Baltimore. Tại đây, cảnh sát thu được thêm 3.780 USD.

Vào khoảng 21 giờ 50 phút hôm ấy, thông tin chi tiết về vụ phát hiện tình cờ nói trên đã được cung cấp cho văn phòng của FBI ở Baltimore. Số tiền này đã nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng trong một thời gian dài, số sêri của chúng cũng được cung cấp cho FBI. Kết quả kiểm tra số sêri cho thấy trong số tiền thu được từ gã lưu manh nói trên có nhiều tờ là tiền mà 7 tên cướp bịt mặt đã cướp của Ngân hàng Brink vào tối 17/1/1950. Kết quả điều tra còn cho thấy một thực tế là giới tội phạm đang sử dụng những khoản tiền trong vụ cướp Ngân hàng Brink.

Trong số 4.822 USD thu được từ gã lưu manh, các nhân viên đặc FBI xác định có 4.635 USD là tiền bị cướp trong vụ cướp Ngân hàng Brink. Xét hỏi gã lưu manh trong các ngày 3 và 4/6/1956, FBI xác định được vào thời gian này gã đã 31 tuổi, từng bị bắt và bị kết tội, tuy nhiên vì lúc gây án gã chưa đến tuổi trưởng thành nên được phóng thích khỏi nhà tù liên bang, sau đó gần một năm thì lại bị bắt  rồi lãnh án tù giam 2 năm về tội cướp.

Trong lúc khai với các nhân viên FBI, gã lưu manh cho biết y làm thầu khoán xây dựng và đang cùng một người bạn có một vụ làm ăn với một người đàn ông khác có văn phòng trên đường Tremont ở Boston. Người đàn ông này có biệt danh John "béo" đã gợi ý gã và người bạn đến văn phòng của y.

Vào tối 1/6/1956, John "béo" bảo gã tháo một tấm bảng trên tường văn phòng. Khi tấm bảng được tháo ra, John "béo" chui vào cái hốc trên tường rồi mở nắp một chiếc hòm sắt. Bên trong chiếc hòm sắt là các gói tiền được bọc bằng nilon và giấy báo. John "béo" cho biết mỗi gói có khoảng 5.000 USD và nói: “Đây là tiền tiêu được, nhưng các anh không được sử dụng nó ở Boston”.

Theo lời khai của gã lưu manh bị bắt giữ ở Baltimore thì sau đó, John "béo" cho gã biết toàn bộ số tiền giấu trong hòm sắt là tiền trong vụ cướp Ngân hàng Brink và cho gã 5.000 USD nếu gã “đổi” được 30.000 USD. Gã đồng ý và nhận 6 gói tiền do John "béo" đưa cho. Ngày hôm sau, 2/6/1956, gã rời Massachusetts với 4.750 USD và bắt đầu đi “đổi”. Gã đến Baltimo vào sáng 3/6 rồi bị cảnh sát ở đây bắt giữ vào buổi tối cùng ngày. 

Nội dung những lời khai báo trên đã được chuyển ngay tới Cơ quan FBI ở Boston. John "béo" và người bạn của gã lưu manh bị bắt và bị đưa đến trụ sở FBI để xét hỏi vào sáng 4/6/1956. Cả hai đều khai không biết gì về số tiền vừa được phát hiện.

Tuy nhiên, dựa vào lời khai nói trên về việc John "béo" cấp tiền và cho biết số tiền ấy là tiền cướp được trong vụ cướp Ngân hàng Brink, một cuộc khám xét được triển khai từ Boston tới văn phòng mà 3 gã đàn ông nói trên hiện đang sử dụng trên đường Tremont.

Tại văn phòng của John "béo", lực lượng khám xét đã phát hiện tấm bảng gỗ trên tường như mô tả của gã lưu manh ở Boston. Khi tấm bảng này được gỡ đi, một thùng như thùng làm lạnh dành cho các cuộc picnic lộ ra. Chiếc thùng chứa 57.000 USD, trong đó có đến 51.906 USD là tiền trong vụ cướp Ngân hàng Brink.

Việc phát hiện số lượng lớn tiền trong vụ cướp ngân hàng nói trên đã dẫn đến việc bắt giữ John "béo" và người bạn làm ăn của gã lưu manh ở Boston, kẻ đã bị bắt trước đó ở Baltimore. Hai kẻ mới bị bắt này không chịu khai báo gì sau khi bị bắt giữ.

Vào ngày 5 và 7/6/1956, Bồi thẩm đoàn ở  Suffolk đã đưa ra cáo trạng buộc tội 3 gã đàn ông liên quan đến chứa chấp và tiêu thụ tiền bị cướp trong vụ Ngân hàng Brink. (Vào tháng 11/1956, John "béo" bị tuyên phạt 2 năm tù giam, 2 đối tượng còn lại bị phạt 1 năm tù giam). FBI cũng đã xác định được người thợ đã sửa đổi bức tường văn phòng của John "béo" thành nơi giấu tiền. Người này cho biết anh ta sửa lại văn phòng vào đầu tháng 4/1956 theo chỉ dẫn của John "béo". Vào thời gian này, số tiền nói trên chưa được cất giấu tại đây. 

Vì các tờ tiền trong chiếc thùng nói trên có mức độ phân hủy khác nhau nên rất khó thực hiện một phân tích chính xác. Một số tiền trong đó đã tan thành các mảnh nhỏ. Một số khác thì tan trong lúc được cầm lên. Các kết quả phân tích trong phòng thí nghiệm của FBI về độ phân hủy, độ đổi màu và độ xỉn cho thấy toàn bộ số tiền trên đều bị ngâm nước và đã bị hư hại trước khi được gói vào giấy báo. Có dấu hiệu cho thấy số tiền này từng được để trong một thùng làm bằng vải bạt và được chôn dưới lớp đất đầy cát và tro tàn. Đất và côn trùng đã để lại vết tích trên các tờ tiền đã cho thấy điều đó.

Dù đã phát hiện số tiền nói trên ở BaltimoreBoston nhưng vẫn còn 1.150.000 USD bị mất trong vụ cướp Ngân hàng Brink chưa tìm ra.

Nút thứ hai mở vụ án: Cái chết bất ngờ của Gusciora 

Việc phát hiện số tiền nói trên là cú đòn mạnh giáng vào các thành viên nhóm cướp đang chờ đợi án tù ở Boston. Chúng day dứt với câu hỏi rằng liệu mỗi dấu vết về khoản tiền bị cướp được phát hiện có cho thấy rõ hơn hành vi của chúng trong vụ cướp Ngân hàng Brink?

Vào tháng 7/1956, một sự kiện có tính bước ngoặt đã xảy ra. Stanley Gusciora, một đối tượng tình nghi quan trọng được chuyển từ nhà tù ở Pennsylvania tới  Massachusetts để thụ án đã phải vào viện để chữa trị chứng chóng mặt và nôn mửa. Vào chiều 9/7, một mục sư tới thăm y trong viện. Trong thời gian thăm viếng, Gusciora đột nhiên đứng lên khỏi giường rồi trượt chân ngã, đập đầu xuống sàn nhà, khoảng 2 tiếng đồng hồ sau thì tắt thở. Kết quả khám nghiệm nguyên nhân chết của y cho biết y bị u và phù não cấp tính.

O'Keefe và Gusciora từng là bạn và có mối quan hệ gần gũi trong nhiều năm. Khi O'Keefe thú nhận vai trò của mình trong vụ cướp Ngân hàng Brink với nhân viên đặc biệt FBI vào tháng 1/1956, y cũng đã khai sơ bộ về mối quan hệ này. Vì là một nhân chứng về vụ cướp y phải miễn cưỡng khai ra những điều bất lợi đối với Gusciora và đó là điều mà O'Keefe không muốn. Nay bạn của O'Keefe - Gusciora đã chết thì không còn lý do gì buộc O'Keefe phải giữ kín mọi chuyện trong lòng và y đã công bố mọi sự thật về vụ cướp Ngân hàng Brink.

Sau cái chết của Gusciora, chỉ còn 8 thành viên của nhóm cướp Ngân hàng Brink phải hầu tòa. Phiên tòa xét xử chính thức mở vào ngày 7/8/1956. 8 tên bị tuyên án vào tối 9/10/1956 gồm Pino, Costa, Maffie, Geagan, Faherty, Richardson và Baker với mức án tù chung thân cho mỗi tên. McGinnis tuy không có mặt tại hiện trường vụ cướp nhưng vẫn bị phạt tù chung thân vì là kẻ đồng lõa và liên quan đến vụ cướp. Ngoài ra, bọn cướp còn phải chịu nhiều hình thức phạt khác.

Vào ngày 16/11/1959, Tòa án Tối cao Mỹ đã bác bỏ đề nghị xét xử lại vụ án

Luật Sư Toàn Quốc - Hà Tuấn (Theo báo nước ngoài
CHUYÊN TRANG NGHỀ LUẬT SƯ VIỆT NAM
"HÃY NÓI VỚI LUẬT SƯ ĐIỀU BẠN CẦN"
------------------------------------------- 
LUẬT SƯ QUẢN LÝ - HOTLINE: 0938188889